Công nghệ MBBR trong xử lý nước thải

Công nghệ MBBR trong xử lý nước thải

17/04/2022

Xử lý nước thải đang là một vấn đề cấp bách của toàn xã hội, bởi chúng đang đe dọa đến sức khỏe của chúng ta cũng như môi trường sinh thái của vạn vật. Chính vì thế, bài viết hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn công nghệ xử lý nước thải MBBR. Vậy công nghệ xử lý nước thải MBBR là gì? Ưu nhược điểm của công nghệ MBBR trong xử lý nước thải? Hãy đọc bài viết sau để biết thông tin chi tiết nhé

1. Công nghệ MBBR là gì?

MBBR là viết tắt của từ Moving Bed Biofilm Reactor, là quá trình xử lý nhân tạo thông qua việc sử dụng các vật liệu làm giá thể cho các vi sinh dính bám vào để sinh trưởng và phát triển.
Công nghệ xử lý nước thải MBBR là quá trình xử lý sinh học hiệu quả thông qua sự kết hợp giữa quá trình bùn than hoạt tính và màng sinh học.  Công nghệ xử lý nước thải này sử dụng thiết bị BioChips công suất cao MicroOrganism trong bể sục khí và anoxic.

Sử dụng MBBR trong xử lý nước thải sẽ tiết kiệm được diện tích và mang lại hiệu quả xử lý cao. Vật liệu làm giá thể phải có tỷ trọng nhẹ hơn nước để có thể đảm bảo được điều kiện lơ lửng. Các giá thể này sẽ hoạt động không ngừng trong toàn thể tích bể nhờ vào các thiết bị thổi khí và cánh khuấy. Mật độ vi sinh càng gia tăng thì hiệu quả xử lý sẽ càng cao.

Tương tự Aerotank truyền thống, để tăng cường khả năng xử lý nitơ của bể sinh học thiếu khí thì người ta cần thêm vào bề giá thể MBBR. Và thể tích của vật liệu MBBR so với thể tích bể sẽ được điều chỉnh theo tỷ lệ phù hợp, thường là <50% thể tích bể.

2. Nguyên lý hoạt động của bể MBBR

Công nghệ xử lý nước thải MBBR được đánh giá là công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp tốt nhất.  Ngoài nhiệm vụ xử lý nước thải thì trong bể sinh học hiếu khí dính bám lơ lửng còn xảy ra quá trình Trinitrate hóa và Denitrate, quá trình này giúp loại bỏ được các hợp chất nito, photpho có trong nước thải, do đó bạn không cần phải sử dụng bể Anoxic.

Bể MBBR sẽ dử dụng các giá thể vi sinh di động có trong bể sục khí để làm gia tăng lượng vi sinh vật có sẵn để xử lý nước thải. Các vi sinh vật sẽ phân hủy hết các tạp chất hữu cơ có trong nước thải. Tiếp đó là hệ thống thổi khí sẽ giúp khuấy trộn các giá thể trong bể nhằm đảm bảo các giá thể vi sinh sẽ được xáo trộn liên tục trong quá trình xử lý nước thải.

Vi sinh vật phát triển sẽ bám trên bề mặt vật liệu giá thể gồm : lớp ngoài cùng của vi sinh vật hiếu khí, vi sinh vật thiếu khí, lớp trong cùng là vi sinh vật kị khí, nhằm hỗ trợ quá trình phân giải các chất hữu cơ có trong nước thải và giúp nước thải đạt chuẩn (QCVN).

3. Ưu, nhược điểm của công nghệ MBBR

Ưu điểm

– Hệ vi sinh bền: các giá thể vi sinh tạo cho màng sinh học một môi trường bảo vệ. Do đó, các hệ vi sinh xử lý dễ được phục hồi.

– Mật độ vi sinh cao: Mật độ vi sinh vật xử lý trên một đơn vị thể tích cao hơn so với hệ thống xử lý bằng bể thổi khí thông thường, do đó tải trọng hữu cơ của bể MBBR sẽ cao hơn.

– Chủng loại vi sinh đặc trưng: Lớp màng vi sinh phát triển phụ thuộc vào các loại chất hữu cơ và tải trọng hữu cơ trong bể xử lý.

– Tiết kiệm năng lượng.

– Dễ vận hành, dễ dàng nâng cấp.

– Tải trọng cao, biến động ô nhiễm lớn: Mật độ vi sinh vật trong lớp màng sinh học rất cao, do đó tải trọng chát hữu cơ có trong bể MBBR sẽ rất cao.

– Năng suất xử lý cao. Hiệu suất xử lý BOD của MBBR lên đến 90%, giúp oại bỏ được Nito có trong nước thải

– Dễ kiểm soát hệ thống: có thể dễ dàng bổ sung giá thể Biofilm tương ứng với tải trọng ô nhiễm và lưu lượng nước thải.

– Tiết kiệm diện tích: Công nghệ xử lý nước thải MBBR có thể giảm được 30-40% thể tích bể so với công nghệ bùn hoạt tính lơ lửng và có thể kết hợp với nhiều công nghệ xử lý nước thải khác.

Nhược điểm

Ngoài những ưu điểm trên thì công nghệ xử lý nước thải MBBR còn có một số nhược điểm sau:

Công nghệ xử lý nước thải MBBR cần phải có các công trình lắng, lọc phía sau công nghệ MBBR

Chất lượng dính bám của vi sinh vật sẽ phụ thuộc vào chất lượng của giá thể MBBR

Sau thời gian dài sử dụng thì giá thể của vi sinh MBBR sẽ rất dễ vỡ

Bài viết trên chúng tôi dã cho bạn biết công nghệ xử lý nước thải MBBR là gì, ưu nhược điểm của công nghệ MBBR trong xử lý nước thải. Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn hiểu thêm về công nghệ xử lý nước thải MBBR.

Ứng dụng công nghệ sinh học giải quyết ô nhiễm môi trường ở nhiều quy mô

Ứng dụng công nghệ sinh học giải quyết ô nhiễm môi trường ở nhiều quy mô

17/04/2022

Ứng dụng công nghệ sinh học có thể giúp khắc phục dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường một cách an toàn mà không hề gây ô nhiễm thứ phát. Đó là những gì người ta thấy từ việc áp dụng giải pháp hữu ích của PGS.TS Tăng Thị Chính, Viện Công nghệ môi trường, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam.

Từ quy mô xử lý cấp …làng

Nước thải nuôi bò chảy tràn trên đường, lõng bõng trong các vũng nước, còn hệ thống mương và ao hồ bốc mùi có thể nói là nỗi ác mộng của nhiều người khi bước vào các xã “thủ phủ” nuôi bò có truyền thống của huyện Gia Lâm, Hà Nội như Đặng Xá, Phù Đổng, Lệ Chi trước đây. Nhận thấy tất cả vấn đề này, các ngành môi trường và khoa học công nghệ của Hà Nội cũng như chính quyền các xã đã xây dựng các mô hình nuôi giun và xây dựng nhiều biogas để xử lý chất thải chăn nuôi của các hộ gia đình đã bắt đầu được áp dụng, nhưng không thấm vào đâu vì lượng thải ra môi trường vẫn rất lớn. Ví dụ, riêng thôn Đổng Xuyên, xã Đổng Xá chỉ có 33/93 hộ chăn nuôi lắp đặt bể biogas, các hộ còn lại không áp dụng công nghệ nào để xử lý nước thải chăn nuôi cũng như nước thải sinh hoạt, tất cả nước thải lẫn chất thải rắn đều thải ra hệ thống mương chung của thôn rồi đi thẳng vào sông Giàng và bốc mùi nặng nề.

“Nên chị Lê Thanh Hiếu, trưởng phòng công nghệ sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội hỏi tôi ‘chị cứ đi làm ở đâu, làm rất nhiều như thế thì sao không làm cho Hà Nội một mô hình xử lý ở đây? Chị có giải quyết được không?’. Tôi trả lời rằng về công nghệ làm được”. Và Hà Nội đã đề nghị PGS Tăng Thị Chính thực hiện đề tài “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý ô nhiễm môi trường chăn nuôi bò tại huyện Gia Lâm, Hà Nội”. Bài toán ở đây là nhóm phải xử lý hàng loạt các khu vực ô nhiễm rất phân tán trong làng. Cụ thể, không đơn thuần xử lý chất thải rắn tương đối dễ dàng như ủ phân, nuôi giun là hoàn thành, mà còn phải xử lý triệt để chất thải lỏng vẫn thải ra nơi công cộng và rơi vào tình trạng cả làng bốc mùi “cha chung không ai khóc”. “Mà người dân cũng không thực sự quan tâm vì không thấy việc xử lý mang lại hiệu quả kinh tế gì. Một nhà nuôi mười mấy nhà ngửi vẫn phải chịu, kêu chung vậy chứ không thể bắt nhà bên cạnh ngừng nuôi”, PGS Tăng Thị Chính nói.

Do đó, nhóm nghiên cứu phải xây dựng một mô hình tổng thể gồm: sử dụng chế phẩm sinh học Sagi Bio để xử lý mùi ngay tại chuồng trại;  Nước thải chăn nuôi, sinh hoạt từ các hộ dân được thu gom vào hệ thống mương sau đó đưa nước thải vào hệ thống các bể lọc đất ngập nước và cuối cùng đẩy sang bể thủy sinh. Nhóm nghiên cứu sử dụng chế phẩm vi sinh vật Sagi Bio (sản phẩm đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 2-0001762 được công bố vào ngày 25/7/2018), gồm các chủng vi khuẩn Bacillus và xạ khuẩn Streptomyces chịu nhiệt và ưa nhiệt sinh tổng hợp mạnh các enzym ngoại bào (xenlulaza, amylaza và proteinaza) để xử lý mùi và làm hoai phân nhanh chóng. Ưu điểm của chế phẩm mà PGS Tăng Thị Chính đã đăng ký bảo hộ độc quyền giải pháp hữu ích từ năm 2016 tại Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ là các chủng vi khuẩn đều được phân lập từ nguồn đất tự nhiên của Việt Nam và được lưu giữ trong bộ sưu tập giống vi sinh tại phòng thí nghiệm của Viện Công nghệ môi trường, có hoạt tính sinh học đặc hiệu cao, đặc tính ưa nhiệt, phù hợp để phối trộn và ủ phân. Các chủng này vừa có khả năng sinh trưởng và phát triển ở nhiệt độ cao, vừa sinh tổng hợp các enzym ngoại bào, đồng thời các xạ khuẩn còn có khả năng sinh một số chất kháng sinh ức chế các vi sinh vật có hại trong chất thải của vật nuôi.

Nhờ đó, các chế phẩm này không chỉ rút ngắn thời gian hoai mục của phân (từ 1 tháng rưỡi xuống còn khoảng 4 tuần) mà sinh nhiệt cao (55-600C) giúp diệt trừ hết các mầm bệnh, giúp giun nuôi bằng phân hoai mục này khỏe hơn, sạch bệnh. Còn hệ thống nước qua xử lý bằng vi sinh vật và ba bể lọc đã được hấp thụ hết các chất hữu cơ và kim loại nặng, đạt các tiêu chuẩn về môi trường sau khi kiểm định độc lập. Theo tính toán sơ bộ của nhóm nghiên cứu, hệ thống này có kinh phí đầu tư rẻ hơn các hệ thống sử dụng phương pháp xử lý môi trường hiếu khí -thiếu khí tới hơn một nửa. Việc đưa ra mô hình xử lý với giá cả hợp lý, không phát sinh ô nhiễm thứ phát này rất có ý nghĩa với các khu vực nông thôn nói chung chứ không chỉ ở Gia Lâm. Bởi vì đây là hiện trạng nan giải vẫn bị bỏ lửng ở hầu hết các tỉnh bởi chăn nuôi hộ gia đình vẫn đang là hình thức chủ yếu – cả nước có khoảng 12 triệu hộ gia đình chăn nuôi, mỗi năm thải khoảng 84,5 triệu tấn chất thải, mà mới chỉ khoảng 20% được xử lý, còn lại 80% thải ra môi trường gây ô nhiễm.

Đến thương mại hóa cho công ty xử lý rác thải ở quy mô lớn

Không chỉ xử lý môi trường cho những xã điển hình về ô nhiễm như thế, mà giải pháp hữu ích của PGS Tăng Thị Chính đã “lọt vào mắt xanh” và được các doanh nghiệp môi trường áp dụng. Trong đó có thể kể tới một đối tác lâu dài là công ty TNHH một thành viên Quản lý công trình đô thị Hà Tĩnh, đơn vị đã đề nghị được tham gia hợp tác với PGS Tăng Thị Chính để áp dụng chế phẩm sinh học bà nghiên cứu bởi vì họ đã “ấp ủ ý định tận thu rác thải sinh hoạt thành phân bón hữu cơ ngay ở giai đoạn đầu xây dựng nhà máy” như lời bộc bạch của giám đốc Lê Quang Đức. Đó là sự tin tưởng của doanh nghiệp đối với một nhà nghiên cứu tâm huyết “vào tận nơi ủ rác, thò tay bốc rác để kiểm tra lượng mùn hữu cơ phân hủy. Khi ấy dù có nhiều lời mời chào hợp tác hấp dẫn nhưng Hà Tĩnh vẫn quyết định chọn tôi”, PGS Chính chia sẻ.

Thậm chí hiệu quả từ việc áp dụng chế phẩm do PGS Chính nghiên cứu đã thuyết phục giám đốc Lê Quang Đức đầu tư thêm hai tỷ đồng xây dựng phòng thí nghiệm và mua sắm thêm các trang thiết bị như tủ lưu giữ chủng giống vi sinh, máy nghiền nguyên liệu, tủ sấy dụng cụ, máy đo pH để bàn, thiết bị lên men vi sinh… bởi đã thực sự “đặt niềm tin vào tri thức khoa học trong công tác xử lý rác. Ngoài phân giải chất hữu cơ, chế phẩm của chị Chính còn có tác dụng hạn chế mùi, ngăn chặn quá trình sinh trưởng của các ổ ấu trùng ruồi, muỗi, qua đó giảm thiểu hóa chất diệt ruồi. Về lâu dài, việc xử lý toàn bộ lượng rác thải đưa về nhà máy đã đạt tới 97% đã góp phần tiết kiệm chi phí đầu tư dài hạn, tiết kiệm quỹ đất chôn lấp chất thải”.

Quyết tâm của đối tác cũng góp phần thúc đẩy PGS Chính hoàn thiện quy trình đồng thời giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian ủ từ 50 ngày xuống còn 30-35 ngày. PGS Chính đã đào tạo, nâng cao chuyên môn cho các cán bộ phòng thí nghiệm nhà máy về kỹ thuật phân tích chất lượng môi trường và nuôi cấy vi sinh vật. Như vậy, thay vì cung cấp toàn bộ chế phẩm thì PGS Chính chỉ còn cung cấp giống sản xuất để các cán bộ ở đây tự sản xuất chế phẩm vi sinh, qua đó giảm tới 50% giá thành sản phẩm so với trước đây.

Từ mẻ phân bón hữu cơ vi sinh đầu tiên, PGS Chính đem trồng khảo nghiệm ngay trong nhà máy, trên các loại đất cát bạc màu mang từ nhiều nơi về với các loại rau màu phổ biến như ngô, dưa hấu, cải xanh… Sau khi thu hoạch, sản phẩm đều được gửi đến các đơn vị có chức năng phân tích để đánh giá dư lượng của các kim loại nặng và vi sinh vật gây bệnh. “Kết quả cho thấy hàm lượng chì trong bắp ngô của chúng tôi thấp hơn bắp ngô bán ngoài chợ”, theo PGS Chính. Để có được kết quả xác thực hơn, sản phẩm đã được gửi đi xét nghiệm tại Trung tâm chứng nhận phù hợp (Quacert) và Công ty cổ phần Chứng nhận và kiểm định (Vinacontrol). Một lần nữa, các kim loại nặng như asen, chì, thủy ngân, cadmi cũng như những vi khuẩn có hại trong sản phẩm đều không có, hoặc nếu có thì ở dưới mức cho phép. Bên cạnh đó, đất trồng các loại rau màu này đã trở nên tơi xốp, cải thiện được tính chất đất.

Điều đáng mừng với cả nhà nghiên cứu và doanh nghiệp là Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp giấy phép sử dụng chế phẩm Sagi bio trong lĩnh vực xử lý môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa các sản phẩm phân bón sản xuất từ chất thải rắn sinh hoạt của công ty Quản lý Công trình đô thị Hà Tĩnh vào danh mục phân bón được cấp giấy phép lưu hành.

Vẫn cần một bài toán tổng thể

Ngay cả khi nhà khoa học đã tối ưu giải pháp hữu ích này và ứng dụng phù hợp với nhiều loại hình – từ quy mô nhỏ lẻ cho tới các doanh nghiệp lớn thì vẫn còn đó những vướng mắc “bên ngoài phạm vi giải quyết của công nghệ”. Với ô nhiễm dân sinh ở Gia Lâm, “tôi nghĩ là triển vọng giải quyết rất tốt nhưng hơi khó áp dụng, bởi vì nếu tôi cấp phát miễn phí chế phẩm sinh học này cho người dân thì họ dùng ngay. Nhưng phải mua thì e rằng rất khó”, PGS Tăng Thị Chính nói. Mặc dù đề tài của bà chỉ được ngân sách chi cho khoảng vài trăm lít chế phẩm vi sinh và đến nay đã hết nguồn này, nhưng bà vẫn phải cung cấp miễn phí thêm cho HTX Làng Gióng để duy trì mô hình. Trái với các công ty xử lý môi trường đô thị có nguồn thu để xử lý, Hợp tác xã Làng Gióng, đơn vị hiện tại đang đảm nhiệm thu phân bò của người dân để ủ nuôi giun quế không có nguồn nào. Chủ nhiệm hợp tác xã Làng Gióng than thở rằng rất oải, vì trên thực tế, việc thu phân bò sữa của các hộ gia đình này không mang lại bao nhiêu lợi nhuận, chỉ đủ chi trả cho các khoản tiền thuê nhân công thu gom, mua chế phẩm ủ hoai cho việc nuôi giun. Chưa kể, hệ thống mương thu gom xử lý nước thải của Đổng Xuyên vẫn cần phải bổ sung chế phẩm vi sinh để khử mùi, thu gom bùn lắng đọng.

“Kinh phí ở đâu” không chỉ là bài toán của HTX làng Gióng hay các xã Đặng Xá, Lệ Chi, mà đây cũng là bài toán của tất cả các mô hình dự án xử lý môi trường ở nông thôn Việt Nam nói chung, theo PGS Tăng Thị Chính. “Thực ra hiện nay các mô hình, giải pháp về xử lý môi trường ở các vùng nông thôn Việt Nam hoàn toàn có và rất khả thi. Nhưng sau khi dự án rút đi, có thể áp dụng vào thực tế hay không? Sẽ cần một bài toán tổng thể và chính sách chung, chứ công nghệ chỉ có thể giải quyết được khâu đầu tiên”, PGS Tăng Thị Chính nói.

Còn đối với các công ty xử lý rác thải, muốn áp dụng giải pháp này, thì trên thực tế công nghệ là khâu cuối cùng. Muốn áp dụng hiệu quả thì buộc các công ty môi trường phải thu gom và phân loại rác tại nguồn, mà trên thực tế đây vẫn là bài toán khó chưa được giải quyết triệt để. Nếu vẫn chưa có giải pháp phân loại ngay từ khâu người dùng, thì các công ty vệ sinh môi trường có “tay năm tay mười” huy động nguồn lực rất lớn thì vẫn không thể nào thu gom hiệu quả và cuối cùng lại phải tốn rất nhiều nhân lực phân loại rác ở khâu cuối. Do đó, rất cần các chính sách tổng thể hơn, giúp thay đổi hành vi và ý thức người dân để thu gom và phân loại ngay từ khâu đầu tiên. Mặt khác, các công nghệ giúp vận chuyển rác hiệu quả hơn cũng cần được nghiên cứu, ứng dụng và thử nghiệm.

Người dân Gia Lâm sử dụng chế phẩm Sagi Bio vào xử lý môi trường. Ảnh: Tăng Thị Chính. 
 Phó Giáo sư Tăng Thị Chính (thứ ba từ trái qua) cùng đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ thăm cánh đồng rau bón phân hữu cơ chế biến từ rác ở Hà Tĩnh.  Ảnh: Hoàng Anh
Thu Quỳnh
(Bài viết hợp tác giữa Cục Sở hữu trí tuệ và Báo Khoa học và Phát triển)
Trái đất đã từng có sóng thần cao hàng ngàn mét

Trái đất đã từng có sóng thần cao hàng ngàn mét

11/04/2022

Khi một tiểu hành tinh va chạm với Trái đất hơn 65 triệu năm trước đã khiến khủng long bị tuyệt chủng. Cú va chạm này đã sinh ra một cơn sóng thần cao gần 2.000 m qua Vịnh Mexico gây hỗn loạn trên khắp các đại dương trên thế giới.


Tiểu hành tinh Chicxulub va chạm với Trái đất gây ra sóng thần cao hàng ngàn mét, hủy diệt khủng long và nhiều loài động vật trên Trái đất.
Một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng, tiểu hành tinh dài 14 km này, được gọi là tiểu hành tinh Chicxulub, đã hủy diệt loài khủng long ở Kỷ Phấn trắng.

Trưởng nhóm nghiên cứu Molly Range cho biết: “Tiểu hành tinh Chicxulub đã dẫn đến một trận sóng thần khổng lồ trên toàn cầu, những trận sóng thần chưa từng thấy trong lịch sử hiện đại”.

Range và các đồng nghiệp của cô đã trình bày nghiên cứu này tại cuộc họp thường niên của Liên minh Địa vật lý Mỹ vào ngày 14/12 năm ngoái ở Washington, DC .

Ý tưởng cho dự án này bắt nguồn khi hai cố vấn của Range – Ted Moore và Brian Arbic, tại Khoa Trái đất và Khoa học Môi trường tại Đại học Michigan, Mỹ – nhận ra rằng, có một lỗ hổng trong nghiên cứu về tiểu hành tinh Chicxulub.

Các nhà nghiên cứu biết rằng, tiểu hành tinh này đã va vào vùng nước nông ở Vịnh Mexico. Họ đã phải nhờ Brandon Johnson, một trợ lý giáo sư nghiên cứu tác động cratering tại Đại học Brown ở Rhode Island, thực hiện mô hình của vụ va chạm.

Johnson đã chạy một mô hình chi tiết những gì đã xảy ra trong 10 phút sau vụ va chạm, khi miệng núi lửa sâu 1,5 km và vụ nổ rất mạnh nên vẫn chưa có nước trong miệng núi lửa. Tại thời điểm này, nước đang di chuyển trở lại miệng núi lửa, sau đó tràn vào miệng núi lửa và chảy ngược ra ngoài, tạo thành sóng thần.

Range cho biết: “Chúng tôi phát hiện ra rằng, trận sóng thần này đã di chuyển khắp đại dương, trong mọi lưu vực đại dương. Ở Vịnh Mexico, nước di chuyển nhanh tới 143 km/h. Trong vòng 24 giờ đầu tiên, ảnh hưởng của tác động của sóng thần đã lan ra khỏi Vịnh Mexico và đến Đại Tây Dương, cũng như qua đường biển Trung Mỹ”.

Sau con sóng cao 1.500m ban đầu, những con sóng khổng lồ khác đã làm rung chuyển các đại dương trên thế giới. Ở Nam Thái Bình Dương và Bắc Đại Tây Dương, sóng đạt độ cao tối đa là 14 m. Ở Bắc Thái Bình Dương, chúng cao tới 4 m. Trong khi đó, Vịnh Mexico chứng kiến ​​những con sóng cao tới 20 m ở một số điểm và 100 m ở những điểm khác.

Khó có thể tưởng tượng một trận sóng thần kinh hoàng như vậy, vì vậy các nhà nghiên cứu đã so sánh nó với trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 khiến ít nhất 225.000 người thiệt mạng. Tuy nhiên, trận sóng thần Chicxulub có năng lượng lớn hơn từ 2.500 đến 29.000 lần so với trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004.

Trận sóng thần khổng lồ này không phải là sự kiện duy nhất khiến khủng long bị tuyệt chủng. Tiểu hành tinh Chicxulub cũng kích hoạt sóng xung kích và đưa một lượng lớn đá nóng và bụi vào bầu khí quyển, chúng cọ xát với nhau, tạo ra nhiều ma sát đến mức gây cháy rừng và thiêu chín động vật.

Theo Tienphong
Thừa Thiên – Huế: Nâng cao công tác quản lý, bảo vệ rừng

Thừa Thiên – Huế: Nâng cao công tác quản lý, bảo vệ rừng

11/04/2022

Lãnh đạo Thừa Thiên – Huế yêu cầu các ban ngành, đơn vị, địa phương phải cùng chung tay trong công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng.

Năm 2021, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế xảy ra 95 vụ cháy, trong đó có 77 vụ cháy rừng, số vụ cháy rừng gây thiệt hại là 48 vụ, diện tích thiệt hại sau xác minh là 511,51 ha. Số người tham gia chữa cháy lên đến 8.000 lượt người; đã xử phạt vi phạm hành chính 13 vụ về hành vi vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy rừng, số tiền phạt 67 triệu; chuyển cơ quan cảnh sát điều tra 2 vụ.

Về công tác ngăn chặn khai thác, vận chuyển gỗ trái phép, trong năm 2021, lực lượng kiểm lâm toàn tỉnh đã bắt giữ và xử lý 368 vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp, tịch thu 159,372 m3 gỗ các loại, thu nộp ngân sách hơn 1,2 tỷ đồng, tịch thu 2 xe ô tô. So với cùng kỳ năm trước giảm 114 vụ và 74,849 m3 gỗ. Lực lượng kiểm lâm và các đơn vị chủ rừng đã tổ chức 721 đợt truy quét, phát hiện 176 vụ vi phạm, tịch thu 57,608 m3 gỗ các loại, 16 máy cưa xăng, tháo dỡ 50 lán trại và 2.556 bẫy động vật rừng.

z2582671090859_9aa0e8e11f4ef30409fea0c99410bfdd.jpg

Cháy rừng ở Thừa Thiên – Huế vẫn phức tạp

Từ sau khi có Chỉ thị số 65/2015/CT-UBND ngày 4/12/2015 của UBND tỉnh, diện tích rừng bị phá đã giảm 37% so với thời kỳ 5 năm trước; diện tích xâm lấn mới rất ít. Chỉ thị số 65 đã góp phần ổn định sản xuất cho ngành lâm nghiệp Thừa Thiên -Huế; từng bước thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành, phát triển sản xuất lâm nghiệp bền vững.

Tuy nhiên, vẫn còn đó những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng như công tác phối hợp của các lực lượng tham gia chữa cháy chưa được nhịp nhàng, sự phân công điều hành và tổ chức chữa cháy rừng các lực lượng phối hợp chưa thực sự hiệu quả, nguyên tắc “4 tại chỗ 5 sẵn sàng” chưa được thực hiện nghiêm túc dẫn đến lực lượng tham gia đông nhưng thiếu dụng cụ chữa cháy rừng. Các vụ cháy lớn đều có chung nguyên nhân là phát hiện không kịp thời, hoặc phát hiện kịp thời nhưng không triển khai kịp thời các biện pháp ngăn chặn nên đám cháy lan rộng và khó chữa. Trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về lâm nghiệp có nơi còn hạn chế, kinh nghiệm cho thấy những nơi nào cấp uỷ, chính quyền địa phương vào cuộc thì nơi đó rừng được bảo vệ tốt. Việc ngăn chặn nạn xâm lấn rừng, đặc biệt ở các huyện miền núi vẫn còn nhiều nguy cơ bùng phát trở lại.

194886599_156060766538388_5743676987659688856_n.jpg

Thành lập các chốt phòng cháy rừng

Để khắc phục những tồn tại, phát huy mặt mạnh, hạn chế yếu kém, đặc biệt là tồn tại mang tính chủ quan, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Hải Minh đề nghị UBND các huyện, thị xã, thành phố có kế hoạch huy động các lực lượng công an, quân đội phối hợp với lực lượng Kiểm lâm kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn triệt để tình trạng phá rừng trái phép, giải quyết dứt điểm các tụ điểm phá rừng ngay từ khi mới manh nha; tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 65/2015/CT-UBND ngày 4/12/2015 của UBND tỉnh. Chỉ đạo chính quyền địa phương các xã có rừng tăng cường công tác nắm bắt, tuyên truyền vận động người dân tham gia công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng, dần chấm dứt tình trạng người dân đứng ngoài cuộc khi cháy rừng xảy ra.

Các ngành theo chức năng nhiệm vụ được giao, phối hợp với lực lượng kiểm lâm thực hiện nhiệm vụ chung về bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm đất rừng; tranh chấp rừng, đất rừng, tránh nguy cơ gây mất trật tự an ninh ở địa phương.

Đề nghị Sở NN&PTNT chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng phương án thiết thực, đầu tư nguồn lực cho công tác phòng cháy và chữa cháy trước mùa cháy rừng; đối với các địa phương nhiều rừng tập trung cần chỉ đạo đơn vị chuyên môn khảo sát, xây dựng phương án phòng cháy lớn như đường ranh cản lửa kết hợp đường sản xuất, vận chuyển.

img_1421.jpg

Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng ở Thừa Thiên – Huế

Phát huy hiệu quả công tác phối hợp của các chốt liên huyện ngăn chặn tình trạng khai thác, vận chuyển lâm sản trên đường bộ, đường sông; cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng thực hiện các trạm liên hợp ở các đầu mối giao thông trên đường bộ nhằm ngăn chặn tình trạng khai thác, vận chuyển gỗ, bảo vệ tốt rừng tự nhiên trên địa bàn.

Lồng ghép và tranh thủ các nguồn lực, cả ngân sách nhà nước, dịch vụ môi trường rừng và các dự án nước ngoài nhằm bảo vệ tốt vốn rừng tự nhiên, tăng năng suất và chất lượng rừng trồng, duy trì độ che phủ rừng trên địa bàn. Nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng theo hướng bền vững, kinh tế gắn với môi trường; đẩy mạnh mô hình hợp tác xã lâm nghiệp bền vững, sản xuất hàng hóa, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực chế biến nhằm tăng giá trị gia tăng cho hàng hóa lâm nghiệp.

“Trước tình hình biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng gay gắt đến đời sống của người dân, vì vậy các ban ngành, đơn vị, địa phương phải cùng chung tay vì nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng, bảo vệ môi trường sinh thái”, ông Minh nhấn mạnh.

 

Nguồn: https://baotainguyenmoitruong.vn/thua-thien-hue-nang-cao-cong-tac-quan-ly-bao-ve-rung-338607.html

Dân làng ngoại thành Hà Nội khổ sở vì bãi thải, xưởng sản xuất phân bốc mùi

Dân làng ngoại thành Hà Nội khổ sở vì bãi thải, xưởng sản xuất phân bốc mùi

05/04/2022

TTO – Khoảng 1 tháng nay, người dân ở xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, Hà Nội bị ‘tra tấn’ hằng ngày bởi mùi hôi thối, khét lẹt từ bãi tập kết chất thải để sản xuất phân nằm sát khu dân cư.

Phản ánh tới Tuổi Trẻ Online, bà Nguyễn Thị Liên (67 tuổi) cùng hàng chục hộ dân ở thôn Phú Dư (xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa) cho biết khoảng 1 tháng nay, họ phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi mùi hôi, thối bốc lên từ bãi tập kết chất thải và xưởng sản xuất phân vi sinh nằm ngay sát khu dân cư.

“Cách đây một thời gian, chúng tôi thấy có người xây dựng các hạng mục nhà xưởng trên bãi đất trống phía sau nhà. Khoảng 1 tháng nay, từng chuyến xe tải chở đất, phân động vật và các thùng nước màu đen về tập kết tại đây. Mỗi khi họ tưới nước trộn, bụi tung tóe kèm theo mùi hôi thối, mùi khét khiến chúng tôi rất khó thở”, bà Liên bức xúc nói.

Còn cụ Nguyễn Văn Biên (89 tuổi) bức xúc: “Nhà tôi sống cách bãi thải khoảng 500m nhưng vẫn thấy mùi thối, đặc biệt là vào ban đêm khiến tôi mất ngủ”.

“Bản thân tôi sinh sống ở đây hàng chục năm nhưng chưa bao giờ chứng kiến cảnh sống chung với mùi hôi như vậy. Chúng tôi đề nghị chính quyền sớm vào cuộc để trả lại cuộc sống không ô nhiễm”, bà Trịnh Thị Tưởng (69 tuổi) nói.

Dân làng ngoại thành Hà Nội khổ sở vì bãi thải, xưởng sản xuất phân bốc mùi - Ảnh 2.

Bà Nguyễn Thị Liên (67 tuổi) nhà ở sát vách bãi tập kết nên bị ảnh hưởng bởi mùi hôi – Ảnh: C.TUỆ

Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ Online, bãi thải và nhà xưởng sản xuất được đặt trên một bãi đất rộng hàng nghìn mét vuông, nằm sát thôn Phú Dư. Bãi tập kết nhiều loại chất thải chưa xác định, một số bãi thải được phủ bạt, còn một số bãi lộ thiên. Một vài người đang điều khiển máy móc hoạt động nhưng xung quanh không cắm biển tên cơ sở sản xuất hay công ty gì.

Quá bức xúc trước việc bãi thải gây ô nhiễm, chiều 16-1, hàng chục người dân tìm đến gặp chủ bãi thải để phản đối, yêu cầu dừng hoạt động và di dời xưởng sản xuất.

Sau đó, một người đàn ông từ trong bãi tập kết chất thải tiến ra tự nhận là quản lý, lớn tiếng nói rằng bãi tập kết chất thải không gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, trưởng thôn Phú Dư Nguyễn Thị Hà khẳng định đã sang tận bãi thải để kiểm tra và gặp chủ cơ sở sản xuất để tìm hiểu nguyên nhân.

“Bên trong bãi chứa nhiều bùn đất, có cả phân động vật, thùng chứa nước nhưng không biết nước gì. Chủ bãi thải cho rằng quá trình làm không có hóa chất gì độc hại nhưng tôi thấy mùi hôi rất khó chịu”, bà Hà khẳng định.

Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, ông Nguyễn Tiến Dũng – chủ tịch UBND xã Hồng Quang (huyện Ứng Hòa) – cho biết bãi đất có chứa các chất thải hiện nay thuộc quản lý của Công ty cổ phần Ximăng Tiên Sơn Hà Tây.

“UBND xã đã báo cáo UBND huyện và đề nghị Phòng Tài nguyên – môi trường huyện về kiểm tra giấy phép sản xuất, đánh giá tác động môi trường. Quan điểm của chúng tôi đề nghị khi kiểm tra, nếu đơn vị này không đủ điều kiện theo quy định thì sẽ ‘giải tán'”, ông Dũng nói.

Sáng 17-1, chủ tịch UBND huyện Ứng Hòa Phạm Anh Tuấn cho biết đã tiếp nhận được phản ánh về tình trạng ô nhiễm môi trường tại xã Hồng Quang. Huyện đã giao Phòng Tài nguyên – môi trường về làm việc trong chiều nay và sẽ thông tin kết quả cụ thể sau khi có kết quả làm việc.

Dân làng ngoại thành Hà Nội khổ sở vì bãi thải, xưởng sản xuất phân bốc mùi - Ảnh 3.

Nhiều cụ ông, cụ bà tập trung để phản đối tình trạng ô nhiễm từ bãi tập kết chất thải – Ảnh: C.TUỆ

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày

05/04/2022

Mỗi ngày hai thành phố Phúc Yên và Vĩnh Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) phát sinh khoảng 350 tấn rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, do chưa có nhà máy xử lý, số rác thải này buộc phải xử lý bằng cách chôn tạm.

Nhiều năm nay, trong khi việc triển khai các dự án nhà máy xử lý rác ở Vĩnh Phúc gặp khó vì chưa có mặt bằng để đầu tư xây dựng, hàng trăm tấn rác thải phải xử lý bằng các phương pháp thủ công.

Cụ thể, theo thống kê của Sở TN&MT tỉnh Vĩnh Phúc, lượng rác thải mỗi ngày khoảng 920 tấn, trong đó ở khu vực đô thị khoảng 350 tấn, khu vực nông thôn khoảng 570 tấn. Tỉ lệ thu gom đã đạt trên 75% ở khu vực nông thôn và trên 95% ở khu vực đô thị.

Tuy nhiên, phương pháp xử lý chủ yếu hiện nay là chôn lấp (chiếm khoảng 75%) và đốt bằng các lò đốt rác quy mô nhỏ cấp xã, cơ sở xử lý do tư nhân đầu tư. Hầu hết các bãi chôn lấp và cơ sở xử lý rác thải đang hoạt động hiện nay chưa đáp ứng được quy chuẩn về môi trường.

Nghìn tấn rác phải chôn tạm

Theo tài liệu VietNamNet có được, hiện nay mỗi ngày TP Vĩnh Yên phát sinh gần 130 tấn rác thải sinh hoạt. Số rác này được Công ty CP môi trường và dịch vụ đô thị Vĩnh Yên thu gom, vận chuyển và tập kết tại khu vực núi Bông (phường Khai Quang).

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày
Bãi rác chôn tạm tại núi Bông

Việc chôn lấp này diễn ra từ nhiều năm. Từ năm 2019 đến nay, khu vực núi Bông ước tính chôn lấp hàng trăm nghìn tấn rác thải sinh hoạt. Khu vực này nằm trong vùng quy hoạch phát triển đô thị và không đảm bảo khoảng cách an toàn về môi trường theo quy định.

Ghi nhận của PV mới đây cho thấy, hoạt động chôn lấp rác thải tại khu vực núi Bông vẫn đang được thực hiện. Bên cạnh bãi rác khổng lồ, một vũng nước thải rộng hàng trăm m2 chuyển màu đen, bốc mùi hôi thối.

Còn tại TP Phúc Yên, đến nay chính quyền vẫn chưa bố trí được điểm xử lý rác nên phải thuê Công ty CP công trình đô thị Phúc Yên vận chuyển rác đến các địa bàn khác để xử lý hoặc chôn tạm tại các phường của thành phố.

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày
Nghìn tấn rác chôn tạm ở Vĩnh Yên

Trong quá khứ, tại các vị trí chôn tạm rác thải đã xảy ra các sự cố tràn rác do ảnh hưởng của thời tiết bất thường. Điển hình, năm 2008, sau mưa lớn, toàn bộ nước thải từ đỉnh núi Bông tràn xuống chân núi khiến nhiều hộ dân lao đao.

Rác tràn khắp làng quê 

Không chỉ hai thành phố Phúc Yên và Vĩnh Yên, các huyện của tỉnh Vĩnh Phúc cũng đang đau đầu tìm hướng giải quyết bài toán rác thải trong khi chưa xây dựng được nhà máy xử lý rác tập trung.

Thống kê cho thấy, mỗi ngày khu vực nông thôn phát sinh xấp xỉ 700 tấn rác thải sinh hoạt. Tuy nhiên, việc xử lý chủ yếu vẫn dừng lại ở việc đốt và chôn lấp.

Đi dọc các tuyến đường qua các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường… không khó để bắt gặp hình ảnh các bãi rác nằm ven các cánh đồng bốc khói nghi ngút. Mùi hôi, khét lẹt từ các bãi rác khiến cuộc sống vốn bình yên ở các làng quê bị xáo trộn.

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày
Rác thải công nghiệp chất đống cạnh bãi rác dân sinh ở huyện Vĩnh Tường (ảnh chụp tháng 5/2021)

Không chỉ vậy, việc tập kết rác tại các bãi rác dân sinh tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường khi các đối tượng lợi dụng tập kết rác thải y tế, rác thải công nghiệp có chất độc nguy hại đến sức khỏe. Cụ thể, Công an tỉnh Vĩnh Phúc từng vào cuộc xác minh việc ngồn ngộn rác thải y tế tập kết tại bãi rác dân sinh tại xã Yên Đồng (huyện Yên Lạc). Đáng chú ý, xã Bình Dương (huyện Vĩnh Tường) từng đau đầu xử lý hàng triệu màn hình tivi chất đống dọc cánh đồng.

Thống kê của Sở TN&MT Vĩnh Phúc cho thấy, toàn tỉnh hiện có khoảng 232 bãi rác tạm với tổng diện tích hơn 31ha. Ngoài ra, toàn tỉnh có 37 lò đốt rác quy mô cấp xã và một nhà máy đốt rác thải tập trung. Việc đầu tư lò đốt nhỏ chỉ giải quyết những khó khăn trước mắt. Hiện nay, hầu hết các lò đốt đều đã xuống cấp, công nghệ thô sơ, lạc hậu và không đáp ứng quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.

“Dân mới nghe nhà máy rác là phản đối”

Trao đổi với PV, ông Nguyễn Bá Hiến, Trưởng phòng Quản lý Môi trường (Sở TN&MT) cho biết, hiện nay toàn tỉnh đang tập trung các nguồn lực để xử lý rác thải sinh hoạt. Ông cho biết, để giải quyết tận gốc vấn đề này bắt buộc phải xây dựng được các nhà máy xử lý rác tập trung.

“Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc giao cho các huyện tự chủ trong việc xây dựng các nhà máy xử lý rác thải. Việc này gặp khó khăn khi người dân mới nghe đến nhà máy rác là đồng loạt phản đối”, ông Hiến nói.

Theo Trưởng phòng Quản lý Môi trường, trước đây nhiều huyện như Vĩnh Tường, Lập Thạch từng thất bại trong việc thuyết phục người dân đồng thuận xây nhà máy rác.

Cụ thể, năm 2018, hàng trăm người dân xã Lũng Hòa (Vĩnh Tường) tập trung phản đối xây nhà máy rác. Mới đây nhất, năm 2022, chính quyền huyện Lập Thạch thất bại trong việc thuyết phục người dân xã Ngọc Mỹ. Điều này tương tự xảy ra tại xã Trung Mỹ (huyện Bình Xuyên).

Hai thành phố của Vĩnh Phúc phải chôn tạm trăm tấn rác mỗi ngày
Các bãi rác dân sinh hiện nay chủ yếu dùng phương pháp đốt

“Người dân không quan tâm bất cứ điều gì liên quan đến công nghệ xử lý rác mà kiên quyết đưa ra yêu cầu không được đặt bãi rác tại địa bàn xã”, ông Hiến nói.

Trưởng phòng Quản lý Môi trường cho hay, chính vì lý do đó, hiện nay toàn tỉnh Vĩnh Phúc mới có 2 nhà máy xử lý rác đi vào hoạt động tại huyện Tam Dương (công suất thực tế khoảng 75 tấn/ngày) và nhà máy rác tại huyện Yên Lạc (công suất khoảng 50 tấn/ngày).

Theo ông Hiến, cuối năm 2021, UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt đề án xử lý rác thải sinh hoạt và vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 và định hướng năm 2030. Nếu áp dụng thành công, đề án này sẽ giúp giải bài toán rác thải mà Vĩnh Phúc đang đối mặt.

 

Nguồn: Vietnamet.Vn

Sơn La: Giám sát hiện trạng xử lý nước thải 3 Nhà máy chế biến cà phê

Sơn La: Giám sát hiện trạng xử lý nước thải 3 Nhà máy chế biến cà phê

04/04/2022

(TN&MT) – Đoàn kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định về bảo vệ môi trường, tài nguyên nước và các lĩnh vực liên quan với các cơ sở chế biến nông sản trên địa bàn tỉnh Sơn La vừa tiến hành kiểm tra, đánh giá hiện trạng sản xuất và tình hình hoạt động các công trình xử lý chất thải sau khi kết thúc niên vụ cà phê 2021-2022 tại 3 cơ sở chế biến cà phê quy mô tập trung.

5.jpg

Đánh giá hoạt động công trình xử lý chất thải tại Nhà máy chế biến cà phê của Công ty CP Phúc Sinh Sơn La.

Tại Nhà máy chế biến sâu tinh chế cà phê của Công ty CP Phúc Sinh Sơn La, niên vụ năm nay, Nhà máy đã thu mua và tiến hành chế biến trên 11.300 tấn cà phê tươi, thời gian hoạt động sản xuất từ ngày 26/8/2021 đến 7/3/2022.

Thời điểm kiểm tra, Nhà máy đã dừng hoạt động thu mua, chế biến cà phê tươi; đang hoạt động chế biến khô. Hệ thống xử lý nước thải công suất 200 m3/ngày đêm đang dừng hoạt động, chỉ còn bể hiếu khí đang nuôi cấy vi sinh. Đoàn đã ghi nhận thực trạng tại 12 hồ lưu giữ nước thải của cơ sở; chốt chỉ số giám sát của 4 đồng hồ đo lưu lượng của hệ thống xử lý nước thải.

6.jpg

Đoàn cũng đã giám sát việc khắc phục các nội dung yêu cầu theo Thông báo kết quả kiểm tra trước đó của UBND tỉnh. Theo đó, hiện giếng số 1, Công ty đang không khai thác sử dụng được, có hiện tượng sạt trượt thành giếng. Công ty đã liên hệ với các đơn vị tư vấn để khắc phục, tuy nhiên, chưa có đơn vị nào đưa ra được phương án khắc phục hiệu quả. Về nội dung này, Đoàn giám sát đề nghị Công ty phối hợp với đơn vị có chuyên môn sâu về nước dưới đất để khảo sát thực tế và đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra giải pháp khắc phục phù hợp, đảm bảo tính khả thi trước khi vào niên vụ 2022-2023. Trường hợp không khắc phục được giếng số 1, để tiếp tục sử dụng Công ty phải thực hiện trám lấp giếng theo quy định.

4.jpg

Chốt chỉ số 4 đồng hồ đo lưu lượng của hệ thống xử lý nước thải.

Xưởng chế biến cà phê Mường Chanh của Hợp tác xã xây dựng và phát triển nông thôn Mường Chanh đã thu mua và tiến hành chế biến hơn 11.800 tấn cà phê quả tươi, hoạt động sản xuất từ ngày 28/8/2021 đến 18/2/2022. Xưởng đã ngừng thu mua và chế biến cà phê tươi; đang tiến hành sản xuất phân vi sinh.

Thời điểm kiểm tra, hệ thống xử lý nước thải công suất 100 m3/ngày đêm đang xử lý nước thải còn lại sau niên vụ. Đoàn công tác đã ghi nhận hiện trạng 6 hồ chứa nước thải; chốt chỉ số tại 2 đồng hồ đo lưu lượng của hệ thống xử lý.

2.jpg

Kiểm tra hiện trạng các hồ chứa nước thải tại Xưởng chế biến cà phê Mường Chanh.

Niên vụ 2021-2022, Xưởng chế biến cà phê Cát Quế, thuộc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Cát Quế, đã thu mua và tiến hành chế biến hơn 9.600 tấn cà phê. Thời gian hoạt động sản xuất từ ngày 13/8/2021 đến 26/1/2022.

Thời điểm kiểm tra ghi nhận, Xưởng đã dừng thu mua và chế biến cà phê tươi; đang tiến hành sản xuất phân vi sinh. Hệ thống xử lý nước thải công suất 100 m3/ngày đêm đang hoạt động xử lý nước thải còn lại sau niên vụ. Đoàn đã kiểm tra hiện trạng 10 hồ chứa, gồm: Hố gom, tách rác nước thải; hồ biogas số 1,2; hồ trung gian 1,2,3; hồ chứa nước thải sau xử lý…; chốt chỉ số 12 đồng hồ giám sát lưu lượng của hệ thống xử lý nước thải. Bên cạnh đó, Xưởng đang ủ vỏ cà phê tươi tại 2 khu vực, đều đã có hệ thống thu gom nước rỉ vỏ vào bể thu nước rỉ vỏ.

Qua kiểm tra, giám sát, Đoàn công tác đề nghị 3 Nhà máy chế biến cà phê tiếp tục thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi trường theo Báo cáo ĐTM và các giấy phép theo quy định đã được phê duyệt. Tổ chức thu gom nước rỉ vỏ từ khu vực ủ phân vi sinh và xử lý theo đúng quy định. Đối với nước thải còn lại từ niên vụ 2021 – 2021, yêu cầu tiếp tục xử lý đảm bảo đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường, trong mọi trường hợp không được xả thải trực tiếp không xử lý ra môi trường.

1(1).jpg

Ghi nhận các chỉ số đồng hồ đo lưu lượng nước thải để kết thúc niên vụ.

Đối với khu vực sân phơi hiện nay đang phơi bùn, bã vỏ khô (sản phẩm sau khi ủ), đề nghị các đơn vị thực hiện che, đậy và thu gom toàn bộ nước mưa chảy tràn (nếu có) về khu vực bể chứa nước thải và tiến hành xử lý theo đúng quy định.

Đồng thời, tiếp tục giao UBND xã Mường Chanh, Chiềng Mung, huyện Mai Sơn và xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu phối hợp giám sát hoạt động của các đơn vị, kịp thời báo cáo UBND huyện Thuận Châu, Mai Sơn, Sở TN&MT trong trường hợp xảy ra ô nhiễm hoặc có kiến nghị từ cộng đồng dân cư.

 

Nguồn: Báo Tài Nguyên & Môi Trường.

Bù Gia Mập hứa hẹn là trung tâm đa dạng sinh học

Bù Gia Mập hứa hẹn là trung tâm đa dạng sinh học

01/03/2022

Nằm trên địa bàn huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, vườn quốc gia  Bù Gia Mập không chỉ là nơi bảo tồn các nguồn sinh quyển ở Đông Nam Bộ mà từ đây còn có thể tìm hiểu văn hóa dân tộc bản địa của người S’tiêng, M’Nông cũng như khám phá những tiềm năng du lịch sinh thái độc đáo.

Vườn quốc gia Bù Gia Mập có tổng diện tích 26.032ha, trong đó diện tích vùng đệm là 15.200ha nằm trên ba xã là xã Bù Gia Mập, xã Đắk Ơ (tỉnh Bình Phước) và xã Quảng Trực (tỉnh Đắk Nông).

Vườn quốc gia thuộc vùng đất thấp của Nam Tây Nguyên với hệ thống sông suối gồm các dòng Ðắk Huýt chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, Ðắk Sa, Ðắk Ka và suối Ðắk K’me.

Vườn quốc gia Bù Gia Mập là nơi có chức năng bảo tồn các loài động vật, thực vật hoang dã và nguồn dược liệu quý hiếm để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và phát triển dịch vụ du lịch sinh thái.
Ngoài ra, vườn quốc gia Bù Gia Mập còn là rừng phòng hộ đầu nguồn đảm bảo nguồn nước cho những hồ chứa của thủy điện Sork Phu Miêng, Cần Đơn, Thác Mơ.

Hiện tại, vườn quốc gia Bù Gia Mập có 724 loài thực vật nằm trong 326 chi, 109 họ, 70 bộ thuộc sáu ngành thực vật khác nhau. Ðặc biệt, nơi đây còn mang đậm nét của rừng nguyên sinh với nhiều loài cây thuộc họ dầu và cây gỗ quý hiếm như cẩm lai, gõ đỏ, mun, lát hoa, gỗ mật, thạch tùng, giáng hương, trắc và hàng trăm giống cây dùng làm thuốc.

Bên cạnh đó, đây còn là nơi cư trú của các loài động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam như gấu chó, báo gấm, sói lửa, bò tót, bò rừng, gà tiền mặt đỏ, gấu ngựa, voi, chà và chân đen.

Do còn mang đậm nét hoang sơ của rừng nguyên sinh với rừng dầu rụng lá theo mùa, rừng lồ ô xen cây gỗ, nên vườn quốc gia Bù Gia Mập là nơi cư trú lí tưởng của nhiều loại động vật thuộc bộ linh trưởng như khỉ đuôi lợn, khỉ mặt đỏ, khỉ vàng, voọc ngũ sắc, voọc xám.

Theo kết quả nghiên cứu gần đây, vườn quốc gia Bù Gia Mập là một trong hai vườn quốc gia của Việt Nam (vườn quốc gia Yok Don) nằm trong Vùng sinh thái Rừng Khô trung tâm Đông Dương của hạ lưu sông Mekong và thuộc hành lang ưu tiên bảo tồn của Tiểu vùng Mekong.

Thực tế thì Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bù Gia Mập đã được chuyển hạng thành vườn quốc gia theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ từ 27/11/2002.

Vừa qua, hội thảo bảo tồn đa dạng sinh học vườn quốc gia Bù Gia Mập và khu vực giáp ranh tỉnh Đắc Nông đã diễn ra tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

Các chuyên gia thuộc Viện Sinh học Nhiệt đới cho biết, vườn quốc gia Bù Gia Mập hứa hẹn sẽ là một trung tâm đa dạng sinh học của Khu vực và trên thế giới, bởi nó nằm ở vùng chuyển tiếp giữa Tây Nguyên xuống vùng đồng bằng Đông Nam Bộ. Vì thế, đa dạng sinh học nơi đây vừa mang tính đặc trưng của khu vưc Tây Nguyên, vừa mang tính đặc trưng của miền Đông Nam Bộ. Cho nên, nơi đây có thể có nhiều loài mới nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng. Vì vậy, rất cần một chính sách hợp lí để hài hòa giữa nhu cầu sử dụng tài nguyên trong cộng đồng bản địa và việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.

Ông Kiều Đình Tháp, Giám đốc Trung tâm Giáo dục và Dịch vụ Môi trường Rừng – vườn quốc gia Bù Gia Mập cho biết, Trung tâm đã triển khai kế hoạch tuyên truyền giáo dục thông qua việc phối hợp với các bà con dân tộc quanh vùng cùng chung tay bảo vệ, quản lí nguồn tài nguyên, sinh thái rừng. Điều này sẽ góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa bản địa kết hợp với du lịch sinh thái tại cộng đồng vùng đệm vườn quốc gia Bù Gia Mập, một phần giải quyết được việc làm cho lao động tại chỗ.

Hiện nay, với trên 20 dòng suối, thác nước lớn nhỏ chạy quanh vườn như thác Đăk Mai, thác Sông Bé, thác Lưu Ly và nhiều hang động như hang Nai, hang Dơi, vườn quốc gia Bù Gia Mập đang là một địa chỉ du lịch sinh thái rất hấp dẫn cho những du khách thích thể thao mạo hiểm và khám phá thiên nhiên hoang dã.

Ngoài giá trị cảnh quan, sinh thái, vườn quốc gia Bù Gia Mập còn là khu di tích lịch sử quan trọng về thời kì kháng chiến chống Mỹ, bởi chính tại nơi đây, địa danh Bù Gia Mập đã đi vào lịch sử với nhiều trận đánh ác liệt của quân và dân miền Ðông Nam Bộ.

Dạo chơi giữa những tán rừng nguyên sinh của vườn quốc gia Bù Gia Mập, chúng tôi cảm nhận được không khí mát lạnh như đang tỏa ra từ những cành cây, ngọn lá. Thoảng đâu đó trong khu rừng, tiếng một chú khướu cất lên lảnh lót làm vang động cả núi rừng yên tĩnh. Đó là một cảm giác rất thú vị dành riêng cho mỗi du khách khi đến với vườn quốc gia Bù Gia Mập vào những ngày hè này./.

http://www.vietnamplus.v
Biến CO2 thành nguồn tài nguyên quý giá

Biến CO2 thành nguồn tài nguyên quý giá

01/03/2022

Mặc dù có vẻ hơi viển vông, nhiều nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy các nhà khoa học đang dần tiến tới mục tiêu biến CO­2 từ một vấn nạn toàn cầu trở thành một nguồn tài nguyên quý giá.
Đối với đa số, CO2­ là nguyên nhân chủ yếu gây ra biến đổi khí hậu, một phân tử xấu xí không ai ưa. Nhưng đối với một số nhà hóa học, CO­2­­ có thể trở thành loại nguyên liệu thô giá rẻ và sẵn có để sản xuất ra nhiều sản phẩm hữu ích.”Tại Đại học George Washington, thủ đô Washington, D.C, một nhóm các nhà khoa học đã phát triển công thức sản xuất sợi nano carbon trực tiếp từ  CO2 trong không khí. Những vi sợi carbon nguyên chất này có thể được dùng để chế tạo các bộ phận của máy bay, thiết bị thể thao và nhiều sản phẩm khác.

Trên thực tế, với đặc tính bền chắc, dẻo dai của chúng, sợi nano carbon thậm chí còn có thể được ứng dụng rộng rãi hơn so với hiện nay, và thay thế cho các nguyên liệu khác như nhôm, thép và xi măng. Nhưng cho đến nay quy trình sản xuất sợi nano carbon vẫn còn khá đắt đỏ và tốn năng lượng.

Tháng 8 vừa qua, một phương pháp mới đã được công bố trên Tạp chí Nanoletters, theo đó sợi nano carboncó thể được sản xuấtvới giá thành thấp và thân thiện với môi trường: làm nóng một loại hóa chất có tên là carbonatesởnhiệt độ cao (khoảng 750o C), carbonates ở dạng dung dịch sẽ hấp thu CO2 từ không khí. Dòng điện từ hai điện cực trong dung dịch carbonate sẽ chuyển  CO2  thành sợi nano carbon và khí oxy. Hệ thống còn được bổ sung khả năng lấy năng lượng từ ánh sáng mặt trời để tạo ra điện và nhiệt phục vụ quá trình xử lí này.

Đến nay, mô hình sản xuất sợi carbon trong phòng thí nghiệm đã thành công. Thách thức hiện tại là làm cách nào có thể đưa mô hình trênlên quy mô sản xuất công nghiệp. Công nghệ xử lí tập trung một khối lượng lớn CO2 vẫn còn gặp nhiều nghi ngại.

Đây không phải cách tiếp cận duy nhất đối với vấn đề CO2. Nhóm nghiên cứu tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley cũng phát triển một công thức biến CO2 thành khí carbon mono (CO) và oxy, từ đó sử dụng COlàm nguyên liệu thô để sản xuất nhiên liệu, dược phẩm và nhựa.

Cách tiếp cận này sử dụng phương pháp có tên Cộng hóa trị khuôn khổ hữu cơ (Covalent organic frameworks – COFs), giống như một dạng tinh thể xà phòng có diện tích bề mặt bên trong cực lớn để hấp thu và phân tách CO2 từ các nhà máy nhiệt điện và những hệ thống phát thải khác.

Trong một phương pháp khác, các nhà khoa học kết hợp các chất xúc tác porphyrin (những phân tử có dạng vòng với một nguyên tử đồng ở giữa) ở dạng tinh thể, tạo ra những vật chất không những có thể thu giữ  mà còn chuyển CO2 thành sản phẩm hữu dụng. Đây làmột trong những hệ thống hiệu quả nhất một khi được phát triển đầy đủ,theo Tập san ngày 20/08 của Tạp chí  Science.

Một thí nghiệm khác thử nghiệm hệ thống lai tạo sợi nano silicon và titan với loại vi khuẩn có tên Methanosarcina barkeri có khả năng chuyển hóa CO2trong không khí thành metan, hay khí ga tự nhiên. Đây là một giải pháp ngắn hạn bởi CO2 lại quay lại môi trường sau khi metan bị đốt cháy. Thế nhưng đây cũng là một bước chuyển lớn so với việc để mặc lượng khí CO2 tăng dần trong không khí.

Biến CO2 thành một dạng vật chất có độ bền cao thực chất mới là giải pháp triệt để. Thế nhưng vấn đề là ở chỗ, nơi nào có thể chứa được tất cả lượng carbon đã hóa rắn?

Theo Thu Thủy (MT&ĐS)